Cơn đau quặn thận thường do sỏi nhỏ đang đi xuống trong niệu quản, làm cho Thận và niệu quản co thắt gây nên. Đa số phát ở một bên, nam giới bị nhiều hơn nữ.
Đông y quy bệnh này vào chứng ‘Thạch Lâm’, Thận Kết Thạch, Du Niệu Quản Kết Thạch.
Triệu Chứng
Cơn đau thường xuất hiện đột ngột, trong 1 số trường hợp cơn đau có thể xảy ra sau khi chơi thể thao, sau khi lao động hay đi 1 quãng đường dài. Cường độ của cơn đau thường khá mạnh, bệnh nhân đau như dao đâm, có cảm giác như bị co thắt bên trong, nhưng không có tư thế nào được coi là tư thế giảm đau thực sự. Các tác giả Anh (Donald, Smith và Pháp (Salem M.) phân biệt 2 trường hợp :
Cơn đau của thận đau khu trú ở vùng sường - thắt lưng, dưới xương sườn 12 bên ngoài của khối cơ chung cùng - thắt lưng, ra phía trước hướng về phía rốn và hố chậu. Cơn đau này trong viêm bể thận - thận cấp tính, sỏi bể thận gây thận trước cấp tính, gây sự căng trướng đột ngột của bao thận sỏi niệu quản ở 1/3 trên.
Cơn đau của niệu quản gây nên do sự bế tắc niệu quản ở dưới, gây ra trướng nước ở thận và sự co thắt ở niệu quản. Cơn đau xuất phát từ ổ thắt lưng và lan xuống dưới, theo đường đi của niệu quản đến hố chậu, bộ phận sinh dục và mặt trong của đùi. Nếu cơn đau bên phải bệnh nhân đau ở điểm Mac Burney ở hố chậu phải, dễ lầm với bệnh viêm ruột thừa. Nếu cơn đau ở bên trái, bệnh nhân sẽ đau ở hố chậu dễ nhầm với bệnh viêm đại tràng co thắt hoặc viêm phần hay u nang buồng trứng xoắn ở phụ nữ. Nếu hòn sỏi xuống phần cuối của niệu quản có thể gây phù nề và viêm nhiễm niệu quản, do đó bệnh nhân có dấu hiệu đái dắt.
Đột nhiên đau quặn bụng dưới dữ dội, đau như cắt, đau lan ra sau lưng và lan xuống mé trong đùi, đường tiểu đau, tức, muốn tiểu không tiểu được, mặt tái, ra mồ hôi, muốn nôn hoặc nôn mửa, có thể ngất.
Triệu chứng kèm theo thường gặp là bệnh nhân nôn mửa; trướng bụng do liệt ruột; có thể sốt và rét rung trong trường hợp có nhiễm trùng niệu kết hợp. Nhiễm trùng niệu ở đây nguy hiểm vì xảy ra ở 1 thận đang bị ứ đọng nước tiểu và dọa sẽ gây ra thương tổn nặng do viêm bể thận - thận ngược, làm suy giảm chức năng thận 1 cách nhanh chóng.
Tùy vị trí và tính chất của sỏi mà biểu hiện cơn đau khác nhau:
. Đau do sỏi bể thận: Nếu sỏi nằm trong nhu mô thận, ít gây đau. Sỏi nằm trong bể thận hoặc đài thận gây ứ nước tiểu ở bể thận, đài thận hoặc gây viêm nhiễm thứ phát hoặc đau âm ỉ vùng một bên hông hoặc cả hai bên. Có khi kèm đái ra máu hoặc nước tiểu sẫm mầu.
. Đau do sỏi niệu quản: đau từng cơn dữ dội khi sỏi di chuyển, có khi làm cho bệnh nhân đứng ngồi không yên, đau vã mồ hôi. Tính chất đau như xé, như dao đâm, lan xuống bàng quang, vùng bẹn. Thường kèm tiểu ra máu.
. Đau do sỏi bàng quang thường ở vị trí bụng dưới kèm tiểu gắt, tiểu buốt, có khi đang tiểu bị tắc, thay đổi vị trí lại tiểu được.
. Sỏi niệu đạo thường gây bí tiểu, tiểu buốt ra đầu dương vật, đau như xé, làm bệnh nhân phải kêu la.
. Trong viêm bể thận, lao thận nặng, thường đau vùng hông một hoặc hai bên. Tính chất đau ê ẩm kèm sốt nhẹ hoặc trung bình. Thường có hội chứng nước tiểu.
. Trong ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận, cơn đau kéo dài kèm cảm giác nặng vùng hông bên đau. Trong ứ mủ còn kèm dấu hiệu nhiễm khuẩn.
Nguyên Nhân:
+ Do sỏi ở bể thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.
+ Viêm thận, bể thận, bàng quang, áp xe thận, lao thận, u thận.
+ Ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận.
Do bàng quang và tiểu trường bị thấp nhiệt uất kết lâu ngày thành sỏi, làm rối loạn chức năng khí hóa, tiểu không thông gây nên cơn bụng dữ dội, xuyên ra sau lưng.
Điều Trị: Thanh lợi thấp nhiệt, tuyên khí, trấn thống.
+ Lý Khí Hoạt Huyết Thang (Giang Tây Trung Y Dược 1986 (1): 18): Bạch thược, Chỉ xác đều 30g, Cam thảo 10g, Trầm hương 5g, Ô dược, Đương quy vĩ đều 12g, Xuyên ngưu tất, Vương bất lưu hành đều 15g, Hoàng kỳ 20g. Sắc uống nóng.
TD: Ôn thông khí cơ, hành khí, đạo trệ. Trị cơn đau quặn thận.
Gia giảm: Hàn trệ kinh lạc thêm Ngô thù, Hồi hương, Tế tân, Hương phụ. Tiểu ra máu nhiều thêm Mao căn, Tiểu kế. Do thấp nhiệt nhiều thêm Sinh địa, Chi tử, Mộc thông, Xa tiền tử. Đau nhiều không bớt thêm Nhũ hương, Một dược.
Tham Khảo: Tác giả Vương Bình đã dùng bài này trị 20 ca đau quặn thận, đa số được kiểm tra thấy có sỏi ở đường tiểu, bàng quang, Thận. Kết quả hết đau 15 ca, đau giảm 3 ca, không hiệu quả 2 ca, đạt tỉ lệ 90%. Đa số chỉ uống 1-2 thang là khỏi.
+ Sâm Phụ Thang Gia Vị (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1992 (2): 57): Đảng sâm, Phục linh đều 30g, Phụ phiến 15g, Sinh khương 6g, Chế nhũ hương 12g, Chế Một dược 10g. Sắc uống ngày một thang. Thường uống 1 – 4 thang là khỏi. Muốn tống sỏi ra, phải gia giảm thêm những vị khác cho hợp.
TD: Ích khí ôn dương, hoạt huyết, chỉ thống. Trị thận đau quặn do sỏi.
Tham khảo: Đã dùng bài này trị 30 ca. trong đó 14 ca sỏi trong Thận, 13 ca sỏi đường tiểu, 3 ca sỏi bàng quang. Kết quả: sau khi uống thuốc 1-3 ngày, cơn đau quặn khỏi hẳn 28 ca, giảm bớt 1 ca, không khỏi 1 ca.
+ Chân Vũ Thang Gia Giảm (Trung Y Tạp Chí 1989 (11): 27): Phụ tử (chế) 9-10g, Quất hạch, Lệ chi hạch đều 10g, Đại hoàng 6-9g, Bạch thược (sao), Phục linh đều 30g; Chích cam thảo 3g, Sinh khương 3 lát. Sắc uống.
TD: Ôn dương tán hàn, giải kính, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 24 ca. Trừ 2 ca phải dùng thêm thuốc ngoài, còn lại đều hết đau. Thuốc uống ít nhất là 1 thang, nhiều nhất là 6 thang. Đa số uống 2-3 thang. Sau khi uống thuốc, kiểm tra lại bằng X quang thấy sỏi đã tiêu mất. Như trường hợp một người đàn ông bị sỏi đường tiểu gây nên cơn đau quặn thận, đã dùng thuốc tây loại 654 – 2 kèm thuốc lợi tiểu, nhưng không bớt. Chuyển sang uống 3 thang thuốc trên, hết đau, sau đó tiểu ra 2 cục sỏi to bằng hạt đậu xanh.
+ Bổ Trung Ích Khí Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6): 243): Đảng sâm 15g, Bạch truật 12g, Hoàng kỳ 18g, Đương quy, Tiểu hồi, Xuyên luyện tử đều 10g, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì, Trầm hương, Chích thảo đều 5g, Lộc giác sương 30g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 5 trái. Sắc uống.
TD: Bổ trung ích khí, hành khí tán kết, hoãn cấp chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi thận, sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài này được dùng trị 72 ca, được X quang hoặc siêu âm chẩn đoán là sỏi thận hoặc sỏi đường tiểu. Kết quả: Toàn bộ đều hết đau. Sau khi uống 1 ngày đỡ đau 12 ca, 2 ngày 28 ca, 3 ngày 28 ca, còn lại là 5 ngày. Sau khi hết đau, chụp X quang kiểm tra lại có 18 ca sỏi đã chuyển xuống dưới, 6 ca hết hẳn sỏi.
+ Ma Phụ Tế Tân Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6) 247): Ma hoàng, Tế tân đều 6g, Phụ tử 15g. Nấu lửa to, không nấu lâu, vớt bỏ bọt nổi bên trên, uống ấm. Nếu chưa bớt, nửa giờ sau lại uống một lần nữa.
TD: Ôn dương, tán hàn, hoãn cấp, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 12 ca đều khỏi hẳn. Trong đó, phát cơn đau trong khoảng 1-2 giờ có 5 ca, 2 giờ trơ lên có 7 ca. cả 12 ca sau khi uống thuốc 1 giờ sau đều hết đau.
Châm Cứu
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Sơ tiết Thuỷ đạo, thanh lợi thấp nhiệt.
Châm Thận Du (Bq.23) + Tam Âm Giao (Ty.6) kích thích vừa, vê kim liên tục 3 - 5 phút. Nếu chưa bớt, thêm Chí Thất (Bq.52) + Thái Khê (Th.3) .
Ý nghĩa: Thận Du, Chí Thất đều là Bối Du Huyệt của Thận, có thể sơ tiết thận khí, thông lợi Thuỷ đạo; Thái Khê là nguyên huyệt của kinh Thận; Tam Âm Giao là tổng huyệt Chủ trị bệnh ở bụng dưới và hệ tiết niệu, dùng để tăng cường hiệu qua? trị liệu.
2- Cứu Quan Nguyên (Nh.4) hoặc Khí Môn hoặc Đại Đôn (C.1), mỗi huyệt 10 tráng (Tư Sinh Kinh).
3- Liệt khuyết (P.7) + Trung Phong (C.4) + Cách Du (Bq.17) + Can Du (Bq.18) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải Du (Bq.24) (Thần Cứu Kinh Luân).
4- Tam Tiêu Du (Bq.22) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải Du (Bq.24) + Hoang Môn (Bq.51) + Chí Thất (Bq.52) + Đại Trường Du (Bq.25) + Tiểu Trường Du (Bq.27) + Quan Nguyên Du (Bq.26) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Dương lăng Tuyền (Đ.34) + Thái Khê (Th.3) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
5- Quan Nguyên (Nh.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Phi Dương (Bq.58) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Thận Du (Bq.23) . Kích thích mạnh (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
6- Thận Du (Bq.23) + Bàng Quang Du (Bq.28)+, Trung Cực (Nh.3) + Âm Cốc (Th.10) châm tả hoặc bình bổ bình tả (Châm Cứu Học Việt Nam).
+ Châm Bàng quang du, Trung cực (để điều hòa khí cơ của Bàng quang), Thận du kết hợp với Âm cốc (để điều hòa khí cơ của Thận). Khí cơ của Thận và Bàng quang hết rối loạn, tiểu tiện sẽ thông, thấp nhiệt ở Bàng quang sẽ bị trừ hết (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Châm huyệt Tinh Linh (huyệt Ngoài kinh, tại mu bàn tay, chỗ giáp của ngón tay thư 4 và 5 đo xuống 0,5 thốn, chỗ lõm phía trụ gân cơ duỗi ngón tay thứ 5), châm sâu 0,3-0,5 thốn, khi đắc khí vê kim cho cảm giác chuyển ra đầu ngón tay, kích thích vừa. Nếu cơn đau chưa giảm, lưu kim 10 phút, thỉnh thoảng kích thích mạnh.
TD: Thông kinh, chỉ thống. Trị cơn đau quặn Thận do sỏi đường tiểu hoặc không rõ nguyên nhân.
Tham Khảo: Dùng phương pháp này trị 53 ca, trong đó sỏi đường tiểu 49 ca. Tất cả đều được Xquang hoặc xét nghiệm nước tiểu, đã dùng thuốc Tây nhưng không bớt hoặc tái phát. Chỉ châm huyệt Tinh linh. Kết quả: châm sâu 0,3-0,5 thốn, hết cơn đau 22 ca. có 4 ca sau khi châm 10 phút mới hết đau. So với dùng dược phải 1-2 ngày mới giảm đau. Trong đó có 3 ca thường ngày hay bị tái phát cơn đau, khi dùng châm, cơn đau hết hẳn. Tác dụng giảm đau đạt 100% (Trung Y Tạp Chí 1988 (10: 53).
Để tránh nguy cơ xảy ra biến chứng nguy hiểm, người bệnh nên sử dụng Kim Châm Cứu Vô Trùng ARLO Khánh Phong:
✔ Sử dụng luôn
✔ Không mất thời gian tiệt trùng
✔ Đảm bảo an toàn khi châm cứu.
****************
Mọi chi tiết xin liên hệ:
CÔNG TY CP XNK KHÁNH PHONG
Số 15, ngõ 2 Nhân Hòa, P. Nhân Chính, Q.Thanh Xuân, HN
Văn phòng giao dịch: Số 60 - Nhân Hòa - Nhân Chính - Thanh Xuân - Hà Nội
ĐT: 0435574351 - FAX: 0435579904
Web: www.khanhphong.com
Theo nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Sáng:
Cơn đau quặn thận là triệu chứng thường gặp trong niệu khoa gây nên do căng trướng đột ngột của vỏ bao thận hoặc của niệu quản và đài bể thận. Cơn đau thường xuất hiện đột ngột, sau khi lao động hoặc đi 1 quảng đường dài và xấu làm cho người ta lắc lư nhiều.
Nguyên nhân của sự căng trướng cấp tính của vỏ bao thận có thể là do sự bế tắc cấp tính đường tiểu dưới gây ứ nước và căng trướng ở đài bể thận; nhu mô thận bị phù nề trong trường hợp viêm bể thận - thận cấp tính hay thận bị xuất huyết dưới bao.
Nguyên nhân của sự căng trướng đột ngột của đài bể thận và niệu quản có thể là do sỏi niệu quản, cục máu đông trong niệu quản hoặc sự chèn ép niệu quản từ bên ngoài do 1 khối u phát triển nhanh. Cần lưu ý là chỉ có sự căng trướng đột ngột mới gây ra cơn đau quặn thận. Có những trường hợp sỏi niệu quản, hẹp niệu quản do lao, gây bế tắc niệu quản 1 cách từ từ hay bướu thận, làm căng dãn bao thận, thì không gây ra cơn đau quặn thận. Như vậy mặc dù cơn đau quặn thận thường được gây nên do sỏi niệu quản, nhưng cũng có nhiều trường hợp có sỏi niệu quản mà không có cơ đau quặn thận. Thậm chí có trường hợp sỏi niệu quản hai bên gây ra vô niệu mà bệnh nhân không cảm thấy đau. Đây là những trường hợp sỏi niệu quản thể yên lặng.
Triệu Chứng
Cơn đau thường xuất hiện đột ngột, trong 1 số trường hợp cơn đau có thể xảy ra sau khi chơi thể thao, sau khi lao động hay đi 1 quãng đường dài. Cường độ của cơn đau thường khá mạnh, bệnh nhân đau như dao đâm, có cảm giác như bị co thắt bên trong, nhưng không có tư thế nào được coi là tư thế giảm đau thực sự. Các tác giả Anh (Donald, Smith và Pháp (Salem M.) phân biệt 2 trường hợp :
Cơn đau của thận đau khu trú ở vùng sường - thắt lưng, dưới xương sườn 12 bên ngoài của khối cơ chung cùng - thắt lưng, ra phía trước hướng về phía rốn và hố chậu. Cơn đau này trong viêm bể thận - thận cấp tính, sỏi bể thận gây thận trước cấp tính, gây sự căng trướng đột ngột của bao thận sỏi niệu quản ở 1/3 trên.
Cơn đau của niệu quản gây nên do sự bế tắc niệu quản ở dưới, gây ra trướng nước ở thận và sự co thắt ở niệu quản. Cơn đau xuất phát từ ổ thắt lưng và lan xuống dưới, theo đường đi của niệu quản đến hố chậu, bộ phận sinh dục và mặt trong của đùi. Nếu cơn đau bên phải bệnh nhân đau ở điểm Mac Burney ở hố chậu phải, dễ lầm với bệnh viêm ruột thừa. Nếu cơn đau ở bên trái, bệnh nhân sẽ đau ở hố chậu dễ nhầm với bệnh viêm đại tràng co thắt hoặc viêm phần hay u nang buồng trứng xoắn ở phụ nữ. Nếu hòn sỏi xuống phần cuối của niệu quản có thể gây phù nề và viêm nhiễm niệu quản, do đó bệnh nhân có dấu hiệu đái dắt.
Đột nhiên đau quặn bụng dưới dữ dội, đau như cắt, đau lan ra sau lưng và lan xuống mé trong đùi, đường tiểu đau, tức, muốn tiểu không tiểu được, mặt tái, ra mồ hôi, muốn nôn hoặc nôn mửa, có thể ngất.
Triệu chứng kèm theo thường gặp là bệnh nhân nôn mửa; trướng bụng do liệt ruột; có thể sốt và rét rung trong trường hợp có nhiễm trùng niệu kết hợp. Nhiễm trùng niệu ở đây nguy hiểm vì xảy ra ở 1 thận đang bị ứ đọng nước tiểu và dọa sẽ gây ra thương tổn nặng do viêm bể thận - thận ngược, làm suy giảm chức năng thận 1 cách nhanh chóng.
Tùy vị trí và tính chất của sỏi mà biểu hiện cơn đau khác nhau:
. Đau do sỏi bể thận: Nếu sỏi nằm trong nhu mô thận, ít gây đau. Sỏi nằm trong bể thận hoặc đài thận gây ứ nước tiểu ở bể thận, đài thận hoặc gây viêm nhiễm thứ phát hoặc đau âm ỉ vùng một bên hông hoặc cả hai bên. Có khi kèm đái ra máu hoặc nước tiểu sẫm mầu.
. Đau do sỏi niệu quản: đau từng cơn dữ dội khi sỏi di chuyển, có khi làm cho bệnh nhân đứng ngồi không yên, đau vã mồ hôi. Tính chất đau như xé, như dao đâm, lan xuống bàng quang, vùng bẹn. Thường kèm tiểu ra máu.
. Đau do sỏi bàng quang thường ở vị trí bụng dưới kèm tiểu gắt, tiểu buốt, có khi đang tiểu bị tắc, thay đổi vị trí lại tiểu được.
. Sỏi niệu đạo thường gây bí tiểu, tiểu buốt ra đầu dương vật, đau như xé, làm bệnh nhân phải kêu la.
. Trong viêm bể thận, lao thận nặng, thường đau vùng hông một hoặc hai bên. Tính chất đau ê ẩm kèm sốt nhẹ hoặc trung bình. Thường có hội chứng nước tiểu.
. Trong ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận, cơn đau kéo dài kèm cảm giác nặng vùng hông bên đau. Trong ứ mủ còn kèm dấu hiệu nhiễm khuẩn.
Nguyên Nhân:
+ Do sỏi ở bể thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.
+ Viêm thận, bể thận, bàng quang, áp xe thận, lao thận, u thận.
+ Ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận.
Do bàng quang và tiểu trường bị thấp nhiệt uất kết lâu ngày thành sỏi, làm rối loạn chức năng khí hóa, tiểu không thông gây nên cơn bụng dữ dội, xuyên ra sau lưng.
Điều Trị: Thanh lợi thấp nhiệt, tuyên khí, trấn thống.
+ Lý Khí Hoạt Huyết Thang (Giang Tây Trung Y Dược 1986 (1): 18): Bạch thược, Chỉ xác đều 30g, Cam thảo 10g, Trầm hương 5g, Ô dược, Đương quy vĩ đều 12g, Xuyên ngưu tất, Vương bất lưu hành đều 15g, Hoàng kỳ 20g. Sắc uống nóng.
TD: Ôn thông khí cơ, hành khí, đạo trệ. Trị cơn đau quặn thận.
Gia giảm: Hàn trệ kinh lạc thêm Ngô thù, Hồi hương, Tế tân, Hương phụ. Tiểu ra máu nhiều thêm Mao căn, Tiểu kế. Do thấp nhiệt nhiều thêm Sinh địa, Chi tử, Mộc thông, Xa tiền tử. Đau nhiều không bớt thêm Nhũ hương, Một dược.
Tham Khảo: Tác giả Vương Bình đã dùng bài này trị 20 ca đau quặn thận, đa số được kiểm tra thấy có sỏi ở đường tiểu, bàng quang, Thận. Kết quả hết đau 15 ca, đau giảm 3 ca, không hiệu quả 2 ca, đạt tỉ lệ 90%. Đa số chỉ uống 1-2 thang là khỏi.
+ Sâm Phụ Thang Gia Vị (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1992 (2): 57): Đảng sâm, Phục linh đều 30g, Phụ phiến 15g, Sinh khương 6g, Chế nhũ hương 12g, Chế Một dược 10g. Sắc uống ngày một thang. Thường uống 1 – 4 thang là khỏi. Muốn tống sỏi ra, phải gia giảm thêm những vị khác cho hợp.
TD: Ích khí ôn dương, hoạt huyết, chỉ thống. Trị thận đau quặn do sỏi.
Tham khảo: Đã dùng bài này trị 30 ca. trong đó 14 ca sỏi trong Thận, 13 ca sỏi đường tiểu, 3 ca sỏi bàng quang. Kết quả: sau khi uống thuốc 1-3 ngày, cơn đau quặn khỏi hẳn 28 ca, giảm bớt 1 ca, không khỏi 1 ca.
+ Chân Vũ Thang Gia Giảm (Trung Y Tạp Chí 1989 (11): 27): Phụ tử (chế) 9-10g, Quất hạch, Lệ chi hạch đều 10g, Đại hoàng 6-9g, Bạch thược (sao), Phục linh đều 30g; Chích cam thảo 3g, Sinh khương 3 lát. Sắc uống.
TD: Ôn dương tán hàn, giải kính, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 24 ca. Trừ 2 ca phải dùng thêm thuốc ngoài, còn lại đều hết đau. Thuốc uống ít nhất là 1 thang, nhiều nhất là 6 thang. Đa số uống 2-3 thang. Sau khi uống thuốc, kiểm tra lại bằng X quang thấy sỏi đã tiêu mất. Như trường hợp một người đàn ông bị sỏi đường tiểu gây nên cơn đau quặn thận, đã dùng thuốc tây loại 654 – 2 kèm thuốc lợi tiểu, nhưng không bớt. Chuyển sang uống 3 thang thuốc trên, hết đau, sau đó tiểu ra 2 cục sỏi to bằng hạt đậu xanh.
+ Bổ Trung Ích Khí Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6): 243): Đảng sâm 15g, Bạch truật 12g, Hoàng kỳ 18g, Đương quy, Tiểu hồi, Xuyên luyện tử đều 10g, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì, Trầm hương, Chích thảo đều 5g, Lộc giác sương 30g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 5 trái. Sắc uống.
TD: Bổ trung ích khí, hành khí tán kết, hoãn cấp chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi thận, sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài này được dùng trị 72 ca, được X quang hoặc siêu âm chẩn đoán là sỏi thận hoặc sỏi đường tiểu. Kết quả: Toàn bộ đều hết đau. Sau khi uống 1 ngày đỡ đau 12 ca, 2 ngày 28 ca, 3 ngày 28 ca, còn lại là 5 ngày. Sau khi hết đau, chụp X quang kiểm tra lại có 18 ca sỏi đã chuyển xuống dưới, 6 ca hết hẳn sỏi.
+ Ma Phụ Tế Tân Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6) 247): Ma hoàng, Tế tân đều 6g, Phụ tử 15g. Nấu lửa to, không nấu lâu, vớt bỏ bọt nổi bên trên, uống ấm. Nếu chưa bớt, nửa giờ sau lại uống một lần nữa.
TD: Ôn dương, tán hàn, hoãn cấp, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 12 ca đều khỏi hẳn. Trong đó, phát cơn đau trong khoảng 1-2 giờ có 5 ca, 2 giờ trơ lên có 7 ca. cả 12 ca sau khi uống thuốc 1 giờ sau đều hết đau.
Châm Cứu
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Sơ tiết Thuỷ đạo, thanh lợi thấp nhiệt.
Châm Thận Du (Bq.23) + Tam Âm Giao (Ty.6) kích thích vừa, vê kim liên tục 3 - 5 phút. Nếu chưa bớt, thêm Chí Thất (Bq.52) + Thái Khê (Th.3) .
Ý nghĩa: Thận Du, Chí Thất đều là Bối Du Huyệt của Thận, có thể sơ tiết thận khí, thông lợi Thuỷ đạo; Thái Khê là nguyên huyệt của kinh Thận; Tam Âm Giao là tổng huyệt Chủ trị bệnh ở bụng dưới và hệ tiết niệu, dùng để tăng cường hiệu qua? trị liệu.
2- Cứu Quan Nguyên (Nh.4) hoặc Khí Môn hoặc Đại Đôn (C.1), mỗi huyệt 10 tráng (Tư Sinh Kinh).
3- Liệt khuyết (P.7) + Trung Phong (C.4) + Cách Du (Bq.17) + Can Du (Bq.18) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải Du (Bq.24) (Thần Cứu Kinh Luân).
4- Tam Tiêu Du (Bq.22) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải Du (Bq.24) + Hoang Môn (Bq.51) + Chí Thất (Bq.52) + Đại Trường Du (Bq.25) + Tiểu Trường Du (Bq.27) + Quan Nguyên Du (Bq.26) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Dương lăng Tuyền (Đ.34) + Thái Khê (Th.3) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
5- Quan Nguyên (Nh.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Phi Dương (Bq.58) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Thận Du (Bq.23) . Kích thích mạnh (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
6- Thận Du (Bq.23) + Bàng Quang Du (Bq.28)+, Trung Cực (Nh.3) + Âm Cốc (Th.10) châm tả hoặc bình bổ bình tả (Châm Cứu Học Việt Nam).
+ Châm Bàng quang du, Trung cực (để điều hòa khí cơ của Bàng quang), Thận du kết hợp với Âm cốc (để điều hòa khí cơ của Thận). Khí cơ của Thận và Bàng quang hết rối loạn, tiểu tiện sẽ thông, thấp nhiệt ở Bàng quang sẽ bị trừ hết (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Châm huyệt Tinh Linh (huyệt Ngoài kinh, tại mu bàn tay, chỗ giáp của ngón tay thư 4 và 5 đo xuống 0,5 thốn, chỗ lõm phía trụ gân cơ duỗi ngón tay thứ 5), châm sâu 0,3-0,5 thốn, khi đắc khí vê kim cho cảm giác chuyển ra đầu ngón tay, kích thích vừa. Nếu cơn đau chưa giảm, lưu kim 10 phút, thỉnh thoảng kích thích mạnh.
TD: Thông kinh, chỉ thống. Trị cơn đau quặn Thận do sỏi đường tiểu hoặc không rõ nguyên nhân.
Tham Khảo: Dùng phương pháp này trị 53 ca, trong đó sỏi đường tiểu 49 ca. Tất cả đều được Xquang hoặc xét nghiệm nước tiểu, đã dùng thuốc Tây nhưng không bớt hoặc tái phát. Chỉ châm huyệt Tinh linh. Kết quả: châm sâu 0,3-0,5 thốn, hết cơn đau 22 ca. có 4 ca sau khi châm 10 phút mới hết đau. So với dùng dược phải 1-2 ngày mới giảm đau. Trong đó có 3 ca thường ngày hay bị tái phát cơn đau, khi dùng châm, cơn đau hết hẳn. Tác dụng giảm đau đạt 100% (Trung Y Tạp Chí 1988 (10: 53).
Để tránh nguy cơ xảy ra biến chứng nguy hiểm, người bệnh nên sử dụng Kim Châm Cứu Vô Trùng ARLO Khánh Phong:
✔ Sử dụng luôn
✔ Không mất thời gian tiệt trùng
✔ Đảm bảo an toàn khi châm cứu.
****************
Mọi chi tiết xin liên hệ:
CÔNG TY CP XNK KHÁNH PHONG
Số 15, ngõ 2 Nhân Hòa, P. Nhân Chính, Q.Thanh Xuân, HN
Văn phòng giao dịch: Số 60 - Nhân Hòa - Nhân Chính - Thanh Xuân - Hà Nội
ĐT: 0435574351 - FAX: 0435579904
Web: www.khanhphong.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét